Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng  Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng  Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết.
Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày  giờ tạo thiên lập địa như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất,  giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau.
Đời nhà Đông Chu, Khổng Phu Tử đổi ngày  Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN),  Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười.
Cho đến khi nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN)  lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, trải qua  bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về tháng Tết nữa.
Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng  ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày  thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu  sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ  cốc.
Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng giêng (8 ngày).
Ngoài ra, người ta thường nói “20 Tết”,  “15 Tết”… đây chỉ là nói những ngày ảnh hưởng do những công việc để  chuẩn bị đón Tết hay dư âm còn lại của những ngày Tết.
Nguyên nghĩa của Tết chính là “tiết”. Văn  hóa Việt – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác  nông nghiệp đã “phân chia” thời gian trong một năm thành 24 tiết khác  nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc “giao thời”).
Trong đó tiết quan trọng nhất là tiết  khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau  này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt,  các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa như Triều Tiên,  Mông Cổ, Tây Tạng, Nepal, Bhutan, H’mông Trung Quốc cũng tổ chức Tết âm  lịch và nghỉ lễ chính thức.
Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm  lịch, nhưng từ năm Minh Trị thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương  lịch cho các ngày lễ tương ứng trong âm lịch.
Tết Nguyên Đán là lễ tết đầu tiên của một  năm. Tết được bắt đầu từ lúc giao thừa cùng với lễ trừ tịch. Theo chữ  Hán Nôm, Nguyên có nghĩa là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai.
Tết Nguyên Đán tức là tết bắt đầu đầu năm, mở đầu cho mọi công an việc làm với tất cả mọi cảnh vật đều mới mẻ đón xuân sang.
Năm mới đến, những sự may mắn mới đến, và bao nhiêu điều lo âu phiền toái của năm cũ đều theo năm cũ mà đi hết.
Theo sử của Trung Quốc, Tết Nguyên Đán có từ đời nhà Hạ và lấy tên mười hai chi đặt cho mười hai tháng.
Tháng Dần là tháng Giêng được chọn là tháng đầu năm.
Đến đời nhà Ân, thay đổi là tháng Sửu làm  đầu năm. Nhưng khi đến nhà Chu thì sửa lại tháng Tý. Rồi đến đời Tần  Thủy Hoàng lại sửa chữa lấy tháng Hợị Nhưng khi đến đời vua Hán Vũ Đế  thì đầu năm lại vào tháng Dần như ban đầụ Và từ đó đến nay không còn sửa  nữa.
No comments:
Post a Comment