THÁNG 5
  • 1/5/1886
  • NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG
Khi quốc tế cộng sản thành lập năm 1864, Các Mác đã nói nhiều đến vấn đề rút ngắn thời gian lao động trong ngày. Đại hội lần thứ 1 Quốc Tế Cộng Sản họp ở Genéve tháng 4/1864 đã coi việc đấu tranh ngày làm 8h là nhiệm vụ trước mắt. Tại đại hội quốc tế họp ở Luân Đôn, ông Ơ-giê Đuy-pông người thay mặt cho Các Mác đã đưa ra một dự án ngày làm 8h.

Những công nhân nước Anh đi di cư sang Mỹ làm ăn đã mang sang nước này phong trào đấu tranh đòi ngày chỉ làm việc 8h, từ đó phong trào phát triển mạnh ở Mỹ. Năm 1868, chính quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ngày làm việc 8h trong các cơ quan xí nghiệp thuộc chính phủ, nhưng các xí nghiệp tư bản vẫn làm 11 – 12h/1 ngày.

Tháng 01/1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago (Mỹ), Đại Hội liên đoàn lao động Mỹ thông qua nghị quyết: từ ngày 01/05/1886, ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8h, hằng năm chọn ngày ấy để làm hợp đồng mới giữa chủ và thợ. Ngày 1/5/1886 khắp nơi công nhân đều mang biểu ngữ : "Từ nay trở đi không người thợ nào làm việc quá 8 giời 1 ngày”. Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi và 8 giờ học tập. 5.000 cuộc bãi công của công nhân với khoảng 340.000 người tham gia khắp nước Mỹ, sau đó 12 vạn rưỡi công nhân đã giành được quyền ngày làm việc 8 giờ.

Từ đó ngày 1/5 hàng năm đã trở thành ngày đấu tranh của công nhân các nước, ngày hội của công nhân và lao động trên toàn thế giới.

  • 07/05/1954
  • CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ
Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn ớ phía Tây vùng rừng núi phía Bắc. Đây là một căn cứ quân sự rất thuận lợi. Thực dân pháp đã lấy căn cứ này chiến lược cơ động.

Trong chiến dịch Thu Đông năm 1953 – 1954, lực lượng địch tại tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và một phi đội không quân thường trực 14 chiếc. Số quân lính địch là 16.200 tên, chúng bố trí 49 cứ điểm thành 8 cụm, mỗi cụm là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. 8 cụm cứ điểm chia làm 3 phân khu, phân khu trung tâm gồm 2/3 lực lương ở ngay giữa Mườn Thanh. Sau 5 ngày chiến đấu ta đã tiêu diệt gọn 2 cứ điểm kiên cố vào bậc nhất là Him Lam va Độc Lập, sau đó làm tan rã thêm 1 tiểu đoàn địch và tiêu diệt tiểu đoàn Bản Kéo, ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, 26 máy bay bị phá huỷ, mở thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh.

17h30 ngày 30/04/1954, ta mở đợt tấn công thứ 2. Cuộc chiến trên đồi A1 diễn ra hết sức gay go, ác liệt. Hai bên giằng co từng tất đất. Đến ngày 04/04 mỗi bên chiếm giữ 1 nửa đồi A1.

Đánh vào khu Đông ta diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các cao điểm. Quân đội viễn chinh Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ Chi viện cho thực dân Pháp gần 100 máy bay oanh tạc chiến đấu và gần 50 máy bay vận tải đồng thời tổ chức diễn tập “đổ bộ ào ạt vào Đông Dương “.

Đêm 01/05/1954 ta mở đợt tấn công thứ 3, quân ta đánh chiếm các cứ điểm còn lại phía Đông và phía Tây, bẻ gãy cuộc phản kích của địch. Đêm 3/5/1954, bộ đội ta chỉ cách sở chỉ huy của địch 300m.

17h30 ngày 7/5/1954 , những trận pháo kích của bộ đội ta nhắm thẳng vào sở chỉ huy địch. Tướng Đờ-cat-tơ-ri và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm của địch bị bắt sống. Gần 1 vạn quân địch nhảy ra khỏi hầm xin hàng. Đêm đó ta tấn công bắt sống toàn bộ quân địch ở phân khu Nam.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu cực kỳ anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay, thu toàn bộ vũ khí, kho xăng, đạn dược, quân trang quân dụng.

Chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến chống Pháp xâm lược. “Đã được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc” (Lê Duẩn). Nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết những câu thơ mô tả sinh động những ngày chiến dịch Điện Biên Phủ gian khổ nhưng hào hùng:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
chiến sĩ anh hùng
đầu nung lửa sắt
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm,cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Dầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão
những đồng chí chèn lưng cứu pháo
nát thân, nhắm mắt còn ôm
những bàn tay xẻ núi lăn bom
nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện..
(hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
  • 15/05/1941
  • THÀNH LẬP ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH
Từ năm 1925, sau khi sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên cách mạng đồng chí hội - tiền thân của Đảng, Bác Hồ đã chỉ thị về nước, lựa chọn 1 số thanh niên ưu tú đưa ra nước ngoài đào tạo. Trong số 8 thanh thiếu niên lúc đó được Bác Hồ đích thân dạy dỗ có Lý Tự Trọng. Sau này anh đã hi sinh vì sự nghiệp cách mạng. Khi sáng lập ra tổ chức Đoàn, Đảng đã giao trách nhiệm lịch sử cho Đoàn trực tiếp phụ trách chỉ đạo các tổ chức thiếu niên, nhi đồng.

Nghị quyết đại hội Đảng Cộng Sản Đông Dương lần I (1/1935) ghi rõ: “Đoàn phụ trách tổ chức Hồng nhi đoàn, chỗ nào có chi bộ, Đoàn phải lập ra Hồng nhi đoàn, những đoàn viên dưới 16 tuổi nhất luận phải đưa qua Hồng nhi đoàn”.

Ngày 8/2/1941 sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tháng 5/1941 hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 8 đã họp và ra nghị quyết quan trọng đến vận mệnh nước nhà. Hội nghị đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh bao gồm nhiều tổ chức yêu nước.

Ngày 15/5/1942, theo chỉ đạo của Đảng, tổ chức Đội Thiếu Niên Tiền Phong và Đội Nhi Đồng cứu quốc đã được thành lập tại vùng Pắc Pó (Cao Bằng) do Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc ( nay là Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh) trực tiếp phụ trách. Ngày 15/5/1941 đã được ban chấp hành Trung Ương Đảng đồng ý lấy ngày chính thức thành lập đội.

Từ ngày thành lập đến nay, đội đã qua nhiều lần đổi tên. Sự kiện đổi tên có ý nghĩa nhất là sau khi Chủ Tịch Hồ Chí Minh qua đời, thiếu nhi cả nước, ban chấp hành Trung Ương Đảng trong phiên họp ngày 30/1/1970 đã cho phép đoàn thanh niên, đội thiếu niên được mang tên Bác.

  • 19/05/1890
  • NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/05/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ Tịch ngay từ thời niên thiếu.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giời và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước.

Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước Châu Âu, Á, Phi, Mỹ. Người hoà mình với những công nhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động vừa sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của cách mạng tháng mười Nga đã đưa Hồ Chủ Tịch đến với chủ nghĩa Mac-LêNin. Ra sức nghiên cứu chủ nghĩa Mac-LêNin, Người đã nhận ra đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.

Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã Hội của Pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến hội nghị Vec-Xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Tháng 12/1920, trong đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã Hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc Tế Cộng Sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Cộng Sản.

Năm 1921, Người tham gia thành lập hội liên hiệp các dân tộc và thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người Cùng Khổ” ở Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác-LêNin và tham gia Quốc tế Cộng Sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào đoàn chủ tịch Quốc Tế Nông Dân. Năm 1924, Người dự đại hội lần thứ 5 Quốc Tế Cộng Sản và được cử làm Uỷ viên bộ Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, hướng dận và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng Sản ở các nước Đông Nam Á. Năm 1925, Người thành lập hội liên hiệp các nước bị áp bức ở Á Đông.

Tháng 6/1925, Người tổ chức Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, mà hạt nhân là Cộng Sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh Niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa vể nước hoạt động.

Ngày 3/2/1930, Người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống nhất các nhóm tại Cộng Sản trong nước thành Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trong thời gian từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc Tế Cộng Sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho ban chấp hành Trung ương Đảng ta.

Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người về nước triệu tập hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng cả nước.

Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Tháng 8/1945, trong không khí sục sôi cách mạng của thời kỳ tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung Ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm chủ tịch nước chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân toàn thế giới tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nuớc công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Trong những ngày đầu cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây bốn phía. Nạn đói do Phát Xít Nhật – Pháp gây ra đã giệt hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9/1945, cấu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xoá bỏ mọi thành quả của cách mạng tháng tám.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng ban chấp hành Trung Ương Đảng lãnh đạo toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc.

Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền Bắc và lấn dần từng bước ở miền Bắc, âm mưu tiến tời xoá bỏ nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cùng ban chấp hành Trung Ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài chống thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ.

Tháng 7/1954, hiệp định Genéve được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng. Nhưng một nửa nước ở miền Nam bị đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung Ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Tháng 9/1960, đại hội lần thứ III của Đảng đã họp, thông qua nghị quyết về 2 nhiệm vụ chiến lược và bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch ban chấp hành Trung Ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Người và của ban chấp hành Trung Ương Đảng, nhân dân ta vừa đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà và đưa nước tiến lên chủ nghĩa xã hội

Ngày 2/9/1969 Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.

Cuộc đời của chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người Cộng Sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ Quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng Cộng Sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hoà bình và công lý trên thế giới.

Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của liên hợp quốc (UNESCO), ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà văn hoá lớn” (Hồ Chí Minh Vietnamese hero of National Liberation And Great Man Of Culture) vào năm 1990.