• 08/03/1910
  • NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ
Cuối thế kỷ 19, ở Hoa Kỳ, nền kỹ nghệ phát triển đã thu hút đông đảo phụ nữ và trẻ em vào làm việc trong các nhà máy, nhưng bọn tư bản chỉ trả lương rẻ mạc. Ngày 8/3/1899, căm phẫn trước sự bóc lột cùng cực của chủ nghĩa tư bản, phụ nữ công nhân ngành dệt, ngành may tại thành phố Chicago và New York ( Hoa Kỳ) đã đứng lên đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Mặc dù bọn tư bản đã thẳng tay đàn áp và đuổi việc một số chị em nhưng mọi người vẫn đoàn kết, bền bỉ đấu tranh buộc bọn chủ phải khoan nhượng.

Cuộc đấu tranh của phụ nữ ở Chicago đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào của phụ nữ lao động ở Đức, với sự xuất hiện hai nữ chiến sĩ lỗi lạc là Cơlơva Gétkin (người Đức) và bà Rôgia Lúcxămbua ( người Ba Lan). Hai bà đã phối hợp với bà Krúpxcaia (vợ Lênin) vận động thành lập Ban thư ký Hội phụ nữ quốc tế để lãnh đạo phong trào phụ nữ.

Năm 1910, Hội nghị quốc tế phụ nữ có 17 nước tham dự, họp tại Côpenhagơ - thủ đô nước Đan Mạch đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày quốc tế phụ nữ, ngày đoàn kết đấu tranh của lao động nữ trên Thế giới với khẩu hiệu:
* Ngày làm 8 giờ
* Việc làm ngang nhau, tiền lương ngang nhau
* Bảo vệ người mẹ và trẻ em

Từ đó, ngày 8/3 hàng năm trở thành ngày hội của phụ nữ lao động trên toàn thế giới, đoàn kết đấu tranh để tự giải phóng và thực hiện quyền nam, nữ bình đẳng.

Ở Việt Nam ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo phụ nữ tổ chức kỷ niệm ngày 8/3, ngày hội của phụ nữ lao động trên Thế giới đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giaỉ phóng phụ nữ.

  • THÁNG 03/04 (Tháng 2 năm Canh Tý)
  • KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG
Hai Bà Trưng là con gái Lạc tướng ở huyện Mê Linh ( ngoại thành Hà Nội), thuộc dòng dõi vua Hùng. Cha mất sớm, mẹ là bà Man Thiệu, một phụ nữ đảm đang, mưu lược một tay nuôi dạy con khôn lớn.

Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên (miền sông Đáy, Hà Tây), một người có chí khí quật cường, nhiệt thành với việc cứu dân cứu nước.

Vào những năm đầu của thế kỷ thứ nhất, bộ máy thống trị của nhà Đông Hán đè nặng lên nhân dân ta. Năm 34, nhà Đông Hán cử Tô Định - một kẻ tham lam tàn bạo – làm thứ sử kiêm thái thú quận Giao Chỉ. Không chỉ bóc lột tàn tệ nhan dân ta về kinh tế, nhà Hán còn áp bức về chính trị. Chúng đào tạo quan lại và tay sai, bắt dân ta phải theo mọi phong tục, tập lệ của chúng, nhằm thực hiện mưu đồ đồng hoá. Trước tình hình đó, nhân dân ta quyết tâm đứng dậy chống lại chúng. Việc chuẩn bị khởi nghĩa giao cho Thi Sách. Các tướng sĩ cùng bà Man Triệu đã vận động tổ chức đông đảo quân ngũ dưới ngọn cờ cứu nước.

Mùa xuân năm 40, khí thế khởi nghĩa đang sục sôi trong cả nước thì Tô Định đã giết Thi Sách. Hành động tàn bạo của Tô Định và lòng căm thù cao độ làm cho bà Trưng Trắc quyết tâm khởi nghĩa để trả thù nhà, đền nợ nước. Tháng 3 năm Canh Tý, Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tập hợp các Lạc Hầu, Lạc Tướng kêu gọi quân dân đứng lên chống lại quân Đông Hán. Hai Bà dựng cờ khởi nghĩa ở cửa sông Đáy, Phúc Thọ. Khi phát động khởi nghĩa, Bà tuyên thệ bốn điều:
* Một xin rửa sạch nước thù
* Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
* Ba kẻo oan ức lòng chồng
* Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này.

Trước sự tiến công ồ ạt của nghĩa quân, quân Đông Hán đã bị thất bại. Bà lên ngôi vua phong quan tước cho các thủ lĩnh, tướng sĩ. Sau đó vua Quang Võ nhà Hán sai Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí sang xâm lược lần nữa. Bà cùng toàn quân toàn dân kiên quyết kháng chiến. Nhưng thế yếu, quân ta đã thua nhiều trận lớn. Hai Bà đã gieo mình xuống dòng sông Hát tử tiết, để lại đời sau một tấm gương quật cường của ngươì phụ nữ Việt Nam.
  • MỒNG 10 THÁNG 3 ( ÂM LỊCH )
  • NGÀY GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Theo sử cũ và truyền thuyết để laị, nước Văn Lang lúc bấy giờ có 15 bộ lạc Lạc Việt sinh sống chủ yếu ở miền trung du và đồng bằng châu thổ sông Hồng. Hàng chục bộ lạc Âu Việt sinh sống ở vùng Việt Bắc.

Do nhu cầu trị thủy chống giặc ngoại xâm và do việc trao đổi kinh tế văn hóa ngày càng được đầy mạnh, giữa các bộ lạc gần gũi nhau về dòng máu có xu hướng tập hợp và thống nhất nhau. Trong số các bộ lạc Lạc Việt, có bộ lạc Văn Lang là hùng mạnh hơn cả, lãnh thổ của bộ lạc này trải dài từ chân núi Ba Vì tới sườn Tam Đảo. Thủ lĩnh cũa bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang. Ông xưng Vua. Sử gọi là Hùng Vương và con cháu ông sau này nhiều đời cũng mang danh hiệu đó :

  1. Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu hiệu là Hùng Vương
  2. Lạc Long Quân Sùng Lãm, thụy hiệu Hùng Hiền.
  3. Hùng Lân
  4. Hùng Việp
  5. Hùng Hi
  6. Hùng Huy
  7. Hùng Chiêu
  8. Hùng Vĩ
  9. Hùng Định
  10. Hùng Hi
  11. Hùng Trinh
  12. Hùng Võ
  13. Hùng Việt
  14. Hùng Anh
  15. Hùng Triều
  16. Hùng Tạo
  17. Hùng Nghị
  18. Hùng Duệ
Hùng Vương là thủ lĩnh của Việt Nam thơì kỳ bắt đầu dựng nước. Lãnh thổ sinh trưởng đầu tiên của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam. Đất không rộng lắm, có đủ sức sinh tồn và phát triển. Những nhóm dân cư quan trọng nhất là ngươì Việt cổ. Ban đầu họ sống thành từng công xã, ràng buộc với nhau bởi mối quan hệ máu mủ. Họ đoàn kết tương thân tương ái trong công việc làm ăn và giữ nước. Con người Việt Nam ở thời Hùng Vương vừa mới cố sức vươn lên khỏi cuộc sống tự nhiên đầy khó khăn gian khổ, rừng rậm, đầm lầy, thú dữ, giông bão, lụt lội… đã phải đương đầu với kẻ thù xâm lược. Thánh Gióng là thiên thần thoại lịch sử rất đẹp, ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta. Những truyền thống tốt đẹp đó được duy trì rất lâu trong lịch sử Việt Nam.

Thờ kỳ Hùng Vương là một giai đoạn rất quan trọng trong lịch sử dân tộc. Chính thơì kỳ này đã xây dựng nên một nền tảng của dân tộc Việt Nam, nền tảng văn hoá Việt Nam và truyền thống yêu nước. Ngày nay nhân dân ta lấy ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ Tổ và cùng nhau về thăm đền Hùng để tưởng nhớ đến cội nguồn, tổ tiên của dân tộc Việt Nam.

  • 19/03/1950
  • NGÀY TOÀN QUỐC CHỐNG MỸ
Năm 1950, tình hình quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Ở Châu Âu, tiếp sau việc thành lập một số nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và Trung Âu, ngày 7/10/1949, nước Cộng hòa dân chủ Đức ra đời, đánh dấu một thắng lợi lớn của giai cấp công nhân và nhân dân Đức, giáng một đòn mạnh vào âm mưu của bè lũ đế quốc. Ở Châu Á, ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập, làm thay đổi sự sắp xếp và so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng. Sự phát triển về kinh tế và quốc phòng của Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh giành độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Phong trào giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình ngày càng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng. Về phía chủ nghĩa đế quốc, chúng vẫn ráo riết xúc tiến âm mưu gây chiến và áp bức nô dịch các dân tộc nhỏ yếu, đặc biệt là đế quốc Mỹ. Đối với cuộc chiến ở Đông Dương, Mỹ nhúng tay can thiệp mạnh mẽ và trực tiếp hơn. Hàng loạt họat động về chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự được Mỹ tiến hành ráo riết để chi phối trực tiếp hơn nữa các chính sách của Pháp đối với Đông Dương, biến Pháp và ngụy quyền tay sai thành “lính đánh thuê” cho quyền lợi của mỹ ở Đông Dương. Trong khi đó, đế quốc Pháp đang quẫn bách tiến đến kho cạn về tài chính ; một mặt, nhân dân Pháp và thuộc địa phản chiến ngày một quyết liệt thêm.

Ngày 30/6/1950, chuyến tàu Mỹ đầu tiên chở thẳng vũ khí sang Đông Dương đã cập bến Sài Gòn và đổ xuống Cảng 56 máy bay chiến đấu và vận tải, 36 tàu đổ bộ loại nhỏ và một số vũ khí đủ trang bị cho 12 tiểu đoàn quân Ngụy.

Từ đầu năm 1950, phong trào đấu tranh của đồng bào ta ở một số đô thị lớn lại bùng lên mạnh mẽ. Ngày 9/01, một cuộc biểu tình lớn nổ ra tại Sài Gòn. Hơn hai nghìn học sinh cùng đại biểu các giáo sư và gia đình học sinh kéo đến Dinh thủ hiến Nam phần, đòi ngụy quyền phải thực hiện lời hứa trả lại tự do cho 12 học sinh bị bắt trong một cuộc bãi khoá vưà xảy ra trước đó. Cuộc biểu tình được hàng vạn đồng bào các giới nhanh chóng hưởng ứng. Cuộc biểu tình đã bị bọn ngụy quyền đàn áp hết sức dã man, học sinh Trần Văn Ơn bị sát hại. Cuộc biểu tình ngày 9/01 của học sinh và đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đã châm ngòi cho hàng loạt các cuộc đấu tranh tiếp theo và có tiếng vang lớn trong toàn quốc. Ngày 9/01/1950 đã đi vào lịch sử và chính thức trở thành ngày đấu tranh của học sinh, sinh viên Việt Nam.

Giữa những ngày sục sôi khí thế chiến đấu ấy của đồng bào ta, đại sứ Mỹ Gơ-ríp-phin (Griffins) đến Sài Gòn. Hai tàu diệt ngư lôi loại lớn của Mỹ là Stích_cơn ( Stickon) và An-đớt-sơn (Anderson) cập bến cảng Thanh phố. Một tàu sân bay chở 70 máy bay chiến đấu Mỹ cũng tiến vào thả neo ở ngoài khơi Đà Nẵng. Vẫn với thói quen dùng máy bay, tàu chiến để doạ người, Mỹ dự định mở cuộc thao diễn lớn của không quân và hải quân, phô trương lực lượng hòng trấn áp tinh thần đấu tranh của đồng bào ta, đồng thời nâng đỡ tinh thần cho lũ tay sai.

Trong những ngày này, để kịp thơì tỏ rõ ý chí cuả nhân dân ta chống Mỹ can thiệp, Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn chủ trương tiến hành một cuộc đấu tranh lớn. Đi đôi với các hoạt động đấu tranh chính trị, quân và dân ta đã lên tiếng cảnh báo bọn can thiệp Mỹ bằng cả những hoạt động quân sự . Biệt động ném lưụ đạn vào khách sạn Công-ty-năng-tan (Continental) làm đại sứ Gơ-ríp-phin suýt bỏ mạng. Ngày 19/3, hơn 300.000 đồng bào Sài Gòn xuống đường tiến hành một cuộc biểu tình khổng lồ đấu tranh trực diện với đế quốc Mỹ. Sau khi tập hợp đội ngũ tại khu vực chợ Bến Thành, đoàn biểu tình trương cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ chia làm nhiều cánh diễu hành qua các phố lớn tiến về phía cảng. Đồng bào vừa đi vừa hô vang các khẩu hiệu chống Mỹ. Địch dùng hơi cay đàn áp. Đồng bào ta siết chặt hàng ngũ và hành động quyết liệt hơn. Gần chợ Bến Thành quần chúng đốt cháy xe quân sự Pháp. Trước toà thị chính, một sỹ quan Pháp hung hăng giật xé cờ đỏ sao vàng đã bị giết chết. Cờ Pháp, cờ Mỹ và cờ Ngụy ở các công sở dọc đường bị hạ, ảnh Bảo Đại bị xé nát. Đoàn biểu tình tiếp tục đến cảng định tiếp tục đốt phá tàu mỹ. Hai chiếc tàu diệt ngư lôi Mỹ hốt hoảng kéo còi báo động, thả khói mù và vội vã hạ cờ. Thấy đã đạt được tháng lợi, ban lãnh đạo cuộc biểu tình chủ động cho kết thúc cuộc đấu tranh. Thế là ngay trong cuộc đọ sức đầu tiên với nhân dân ta, đế quốc Mỹ đã bị giáng một đòn. Kế hoạch phô trương thanh thế của chúng đã phải huỷ bỏ. Ngay chiều hôm đó, các tàu Mỹ phải nhổ neo lặng lẽ rút lui.

Thắng lợi của cuộc biểu tình chống Mỹ ngày 19/3/1950 của đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu cuả nhân dân ta, được dư luận trong và ngoài nước đồng tình, khâm phục và đánh giá cao. Nó chứng tỏ sức mạnh và khả năng đấu tranh chính trị của nhân dân ta nói chung và cuả đồng bào đô thị nói riêng là rất to lớn. Nó cũng biểu thị quyết tâm của nhân dân ta chống bất cứ kẻ thù nào để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc, không một kẻ thù hung hãn nào dù là đế quốc Mỹ có thể đe dọa, khuất phục nổi nhân dân ta. Ngày 19/3/1950 chính thức trở thành Ngày toàn quốc chống Mỹ.

  • 26/03/1931
  • THÀNH LẬP ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH
Vào mùa xuân năm 1931, ở thời điểm từ ngày 20 đến 26/3/1931, khi tiến hành hội nghị ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ hai, cuộc họp đã dành một phần quan trọng trong chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý nghĩa đặc biệt, như các cấp bộ Đảng từ Trung Ương đến địa phương phải cử ngay các ủy viện của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển và lớn mạnh của phong trào Đoàn trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức đoàn cơ sở với khoảng hơn 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành hệ thống tổ chức Đoàn xã, huyện lên đến tỉnh. Đến cuối năm 1931, số lượng đoàn viện trên cả nước lên đến hơn 2.500 đồng chí, chứng tỏ sự tác động tích cực của hội nghị trung ương lần thứ hai (tháng 3/1931).

Sự ra đời của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách của phong trào thanh niên nước ta bấy giờ. Được Bộ chính Trị Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép thể theo đề nghị của Ban thường vụ Trung ương Đoàn Thanh Niên lao động Việt Nam, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ bai họp từ ngày 22 – 25/3/1961, đã quyết định lấy ngày 26/3/1931( một ngày trong thời gian cuối của hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 đã dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề quan trọng đối với công tác vận động thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm.

Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần :

  • Từ 1931 – 1936 : Đoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Đông Dương
  • Từ 1937 – 1939 : Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương.
  • Tháng 11/1939 – 1941 : Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
  • Từ 5/1941 – 1956 : Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
  • Từ 25/10/1956 – 1970 : Đoàn Thanh niên Lao Động Việt Nam
  • Từ 3/2/1970 – 1976 : Đoàn Thanh Niên Lao Động Hồ Chí Minh.
  • Từ 12/1976 đến nay : Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Những thế hệ thanh niên kế tiếp nhau đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đó là lớp thanh niên cảm tử cho tổ quốc quyết sinh mà tiêu biều là Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Cù Chính Lan, Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót. Đó là thế hệ thanh niên anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những người con ưu tú như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Thái Văn A…

Với các phong trào “ Thanh niên xung phong tình nguyện”, “ Ba sẵn sàng”, “ Năm xung kích”, “Thanh niên kiên cường thắng Mỹ” , “Quyết thắng”. Thế hệ thứ ba này có mặt trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy thần tốc mùa xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng chục triệu đoàn viên đã hăng hái dấy lên phong trào: Ba xung kích làm chủ tập thể” , “Thanh niên lao động sáng tạo” đẩy mạnh thi đua sản xuất và tiết kiệm, thể hiện ý chí tiến công của tuổi trẻ dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.

Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã động viên tổ chức thế hệ trẻ tham gia tích cực các phong trào: “Thanh niên nông thôn sản xuất kinh doanh giỏi”, phong trào CKT ( chất lượng, kiểu dáng, tiết kiệm) trong thanh niên công nhân, phong trào “ Xứng danh bộ đội cụ Hồ” trong thanh niên quân đội, phong trào “Tuổi trẻ công an hành động cách mạng theo 6 điều Bác Hồ dạy, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện”, “Cuộc vận động 3 mục tiêu dân số - sức khoẻ - môi trường”. Các phong trào này bước đầu gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong nhân dân, khẳng định vai trò quan trọng chiến lược của thanh niên trong tình hình mới.

Từ ngày thành lập đến nay Đoàn ta đã tổ chức 7 lần Đại Hội :

  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đoàn khai mạc vào ngày 7/02/1950 tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên với hơn 400 đại biểu. Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Nguyễn Lam làm Bí thư.
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn họp từ 25/10 đến 04/11/1956 tại thủ đô Hà Nội, có 479 đại biểu. Đại hội bầu 30 đồng chí vào ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư thứ nhất.
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III họp từ 23 đến 25/3/1961 tại thủ đô Hà Nội có 677 đại biểu. Đại hội bầu 71 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Nguyễn Lam chuyển công tác khác của Đảng, đồng chí Vũ Quang được bầu làm Bí thư thứ nhất.
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV họp từ 20 đến 22/11/1980 tại Hà Nội có 623 đại biểu. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương và Ban bí thư gồm 13 đồng chí. Đồng chí Đặng Quốc Bảo, uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng được bầu làm bí thư thứ nhất. Sau đó đồng chí Đặng Quốc Bảo nhận công tác khác, đồng chí Vũ Mão được bầu làm bí thư thứ nhất.
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ 27 đến 30/11/1987 tại Hà Nội có 750 đại biểu. Đại hội bầu 150 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành đã bầu Ban thường vụ Trung ương Đoàn gồm 23 đồng chí. Đồng chí Hà Quang Dự được bầu làm bí thư thứ nhất.
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI họp từ 15 đến 18/10/1992 có 797 đại biểu. Đại hội bầu 91 đồng chí uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung ương bầu 14 thường vụ. Đồng chí Hồ Đức Việt được bầu làm bí thư thứ nhất
  • Đại hội toàn quốc lần thứ VII họp từ 26 đến 27/11/1997 có 899 đại biểu. Đại hội bầu 125 uỷ viên Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành bầu Ban Bí thư gồm 5 đồng chí. Đồng chí Vũ Trọng Kim được bầu làm bí thư thứ nhất.